Showing posts with label Theory. Show all posts
Showing posts with label Theory. Show all posts

Monday, November 18, 2013

Công cụ Content-Aware Move/Extend Tool trong Photoshop CS6


Một trong những tính năng mới được bổ sung trong phiên bản Photoshop CS6 chính là công cụ Content-Aware Move/Extend Tool - công dụng của nó là di chuyển , loại bỏ hoặc nhân bản các đối tượng trong tấm ảnh . Bài hướng dẫn này sẽ nói về công cụ này !



Chúng ta sẽ thực hành trên stock này :


Đầu tiên , các bạn dùng công cụ tạo vùng chọn nào mà mình thích hoặc đã quen sử dụng nhất để tạo vùng chọn là cô gái :



Một lưu ý nhỏ là không nên để vùng chọn quá khít vào cô gái , điều này sẽ xảy ra lỗi hoặc sẽ cho kết quả không hoàn hảo lắm , để khắc phục , ta vào thẻ Select > Modify > Expand . Thao tác này nhằm làm dãn vùng chọn ra , tuỳ theo ta điều chỉnh thông số :


Trường hợp này ta sẽ chọn là 5 pixel :


Kết quả sau khi thực hiện thao tác trên :


Sau đó , ta chọn công cụ Content-Aware Move Tool nằm trong nhóm công cụ Spot Healing Brush Tool :

Lưu ý : Cùng với công cụ này chúng ta có thể lưu ý tới thiết lập kèm theo là "Adaptation" nằm bên cạnh nút Mode để kiểm soát sự linh hoạt của việc pha trộn hình ảnh . Trong Adaptation , bạn có thể thấy 5 mức độ từ rất nghiêm khắc (very strick) cho tới với rất lỏng lẻo (very loose) . Khi ta chọn ''very loose'' thì Photoshop sẽ tự động kiểm soát một cách mềm mại hơn cho sự pha trộn hình ảnh , và lựa chọn ''very strick'' sẽ làm cho sự hoà trộn thô cứng hơn .


Sau khi thiết lập các tuỳ chọn ở trên , ta bắt đầu di chuyển cô gái sang bên trái , như hình dưới đây :



Kết quả sau cùng của chúng ta :


Rất đơn giản phải không nào !



Bây giờ ta thực hành với lệnh còn lại là Extend , nó hoàn toàn trái ngược với lệnh Move :


Sau khi tạo vùng chọn và di chuyển cô gái giống như các bước ở trên , thay vì move và thay thế vùng chọn thì nó sẽ nhân bản vùng chọn này , như hình kết quả dưới đây :


Done !



Theo EntheosWeb

Thursday, November 14, 2013

Sự khác nhau giữa Image Resizing và Resampling Image


Có đôi lúc chúng ta thường hay bỏ quên điều rất quan trọng này trong vấn đề thay đổi kích thước của hình ảnh trong Photoshop .
Bài viết này mình sẽ nêu ra điểm khác nhau giữa 2 yếu tố là : Image ResizingResampling Image


Đầu tiên chúng ta nên hiểu khái quát của 2 cụm từ này :
_ Image Resizing : Chỉ thay đổi kích thước của hình ảnh nhưng không thay đổi (ảnh hưởng) đến số điểm ảnh trong tấm ảnh (pixel)
_ Resampling Image (Pixel Dimenssions) : Thay đổi và ảnh hưởng đến số lượng điểm ảnh của tấm ảnh


Khi mở hộp thoại Image Size ra , chúng ta có thể thấy nó được phân ra làm 2 vùng chính : Pixel Dimenssions Document Size
Phần Pixel Dimenssions cho chúng ta biết số điểm ảnh trong chiều dài và chiều rộng của tấm ảnh . Nghĩa là chiều dài của ảnh có chứa 1600 điểm ảnh (pixel) và chiều rộng có chứa 1200 điểm ảnh (pixel) , vậy ta có 1600 x 1200 =1920000 điểm ảnh trong tấm ảnh , và nó còn cho ta biết kích thước của tập tin hình ảnh .
Phần Documnet Size cho chúng ta biết kích thước của ảnh khi đem đi in ấn là bao nhiêu

Nói tóm lại cho dễ hiểu là như thế này :
_ Pixel Dimenssions được sử dụng với những công việc hiển thị hình ảnh trên máy tính , website ...
_ Document Size được sử dụng và tuỳ chỉnh hiển thị cho công việc in ấn


Phần Document Size cho ta biết tình trạng của độ phân giải để in của ảnh , ví dụ như trong hình trên thì ta có 300px/inch , nghĩa là với mật độ 300px/inch thì ta có 1 khổ ảnh là rộng = 5.333inches và dài = 4inches trong trường hợp này , chúng ta có thể thay đổi đơn vị hiển thị khác để xem thêm thông tin.

Tiếp tục , chúng ta có thể thấy có 3 tuỳ chọn ở bên dưới :
Scale Style : Cái này thường không dính dáng lắm nên mình không nói nhiều
Constrain Proportions : Nếu ta chọn hộp kiểm này thì chiều ngang và chiều dọc của ảnh được liên kết với nhau khi ta thực hiện việc thay đổi kích thước của ảnh . Nếu ta bỏ chọn thì chúng sẽ được thay đổi 1 cách độc lập - nghĩa là khi ta thay đổi chiều dài của ảnh thì chiều rộng sẽ không bị ảnh hưởng gì cả và ngược lại . Điều này sẽ làm ảnh bị biến dạng sau khi ta resize ảnh
Resample Image : Bao gồm các tuỳ chọn thiết lập sau khi ta thay đổi kích thước của tấm ảnh


Sau khi nhấp xổ xuống hiện ra 1 loạt các các tuỳ chỉnh của phần Resample Image , có 2 tuỳ chọn mà bạn nên chú ý hơn cả :
_ Bicubic Smoother : Sử dụng khi ta tăng kích thước ảnh lớn hơn , nó sẽ tự động điều chỉnh lại các pixel sau khi resize để cho ra kết quả tốt nhất
_ Bicubic Sharper : Sử dụng khi ta giảm kích thước ảnh nhỏ lại , nó sẽ tự động điều chỉnh lại các pixel sau khi resize để cho ra kết quả tốt nhất

Các tuỳ chọn này cứ hiểu nôm na chính là sự bù đắp của các pixel , tăng kích thước to lên hay làm nhỏ lại thì các pixel sẽ tự động phân bố và đắp vào để cho ra chất lượng tối ưu nhất có thể .


Nếu ta bỏ chọn hộp kiểm Resample Image thì các hộp kiểm ở trên nó sẽ không còn khả dụng , vì Resample Image có tính chất là các pixel của cả 2 chiều dọc và ngang của ảnh có liên quan bù đắp với nhau vì thế khi ta bỏ chọn hộp kiểm này thì các ô còn lại cũng không còn tác dụng .

Khi ta thay đổi thông số ở phần Documnet Size mà bỏ chọn hộp kiểm Resample Image thì đồng nghĩa với việc bạn chỉ đơn thuần là thay đổi kích thước của tấm ảnh , ví dụ tấm ảnh 5x5 cm và bạn giảm xuống còn 3x3 thì khi ta in ấn thì kích thước của nó sẽ là 3x3 cm , không ảnh hưởng đến các pixel trong tấm ảnh .

Và khi ta thay đổi thông số ở Document Size mà chọn hộp kiểm Resample Image nghĩa là ta sẽ động đến các pixel trong tấm ảnh , khi ấy ta sẽ phải thiết lập các tuỳ chọn để các pixel bù đắp với nhau và cho ra chất lượng tối ưu nhất .

Nên nhớ rắng , 72px/inch là con số quá thấp để đem đi in , nên tăng resolution lên khoảng 240px/inch trở lên hoặc tốt nhất là 300px/inch để cho chất lượng ảnh tốt hơn .


Nói tóm lại :
_ Nếu bạn đơn thuần chỉ muốn thay đổi kích thước của ảnh thì đó gọi là Image Resizing
_ Nếu bạn thay đổi cả những điểm ảnh (pixel) thì đó gọi là Resampling Image

Wednesday, November 13, 2013

Những kiến thức cơ bản về công cụ Curves trong Photoshop


Có lẽ ai cũng đã biết công cụ curves trong photoshop , có người thì còn mơ hồ , có người thì đã hiểu và sử dụng rất chuyên nghiệp , bài viết này mình xin chia sẻ 1 số điều mà mình biết về curves cho những người vừa tập dùng photoshop .


Công dụng chính của curves :

_ Chỉnh độ sáng tối , độ tương phản (contrast) của tấm ảnh, hoặc trên một phạm vi (miền) sắc độ
_ Chỉnh độ sáng tối , độ tương phản trên từng khu vực riêng của tấm ảnh .
_ Chỉnh màu sắc cho tấm ảnh


1. Đọc và hiểu histogram trong curves :

Histogram (biểu đồ) trong curves cho chúng ta biết rất nhiều điều về tấm ảnh của mình , ví dụ ảnh có cháy sáng hay ảnh có bị tối hay không ...


Chiều ngang của histogram biểu diễn giá trị của độ phơi sáng , giới hạn từ 0-255 (0 là điểm tối nhất và 255 là điểm sáng nhất)
Chiều dọc biểu diễn số lượng điểm ảnh có được tương ứng với chiều ngang (chúng ta cứ chiếu theo hình vuông góc sẽ thấy điều này)
Cả chiều ngang và chiều dọc đều được chia ra thành 4 phần ( ô vuông lớn ) , vậy ta có : 255/4 = 63.75 , mỗi phần ( ô vuông ) sẽ có giá trị là 63.75


Nếu chia đôi thì ta có 255/2 = 127.5


Theo kiến thức chủ quan thì các điểm ảnh trung tính (midtones) sẽ rơi vào khoảng giữa , nghĩa là ở khoảng 127.5 (lưu ý là ở đây mình chiếu theo mặt phẳng của histogram chứ ko phải trên đường cong) :


Xác định trên đường cong , dựa vào cơ chế này mà ta xác định điểm neo sao cho phù hợp :


Vậy thì ta sẽ dựa vào đó mà phân tích tấm ảnh của mình , ví dụ :
Ta có thể thấy hình dãy núi nằm lệch cả về phía bên trái của biểu đồ , dãy núi vươn cao sát vạch tường , và tấm ảnh bị tối đi thấy rõ (các bạn để ý đỉnh của dãy núi đã chạm đến điểm cao nhất phía tay trái , điều đó có nghĩa là trong tấm ảnh đã có những pixel đã đạt được đến giá trị là 0)


Tiếp tục , hình dãy núi nằm lệch gần như hoàn toàn về phía bên phải của biểu đồ , và ảnh sẽ có xu hướng bị cháy sáng :


Còn đây là hình dãy núi nằm ở vị trí trung tâm của biểu đồ , và độ phơi sáng tương đối bình ổn ( ở đây mình dùng từ là tương đối thôi) :


Nếu ảnh bị cháy sáng quá mức (highlight - ánh sáng gắt)) , ta chỉ cần đặt 1 điểm neo ở vùng midtones , sau đó đặt thêm 1 điểm ở vùng highlight trên histogram và kéo xuống nhằm làm giảm độ sáng gắt cho đến khi vừa mắt :



2. Trả lại Tonal Range đúng cho tấm ảnh :

Tonal Range các bạn cứ hiểu là ''phạm vi sắc độ'' của một tấm ảnh , là một dải giá trị biểu diễn mức độ sáng/tối từ điểm màu có giá trị tối nhất tới điểm màu có giá trị sáng nhất trong tấm ảnh . Khi ta điều chỉnh tonal range đúng thì ảnh sẽ được trả lại độ tương phản và độ phơi sáng đúng , nghĩa là điểm tối nhất sẽ phải đạt giá trị là 0 và điểm sáng nhất sẽ phải đạt giá trị là 255 .

Nếu black point chưa đạt được giá trị là 0 và white point chưa đạt giá trị là 255 thì ta gọi là ảnh có dãy tonal range hẹp (điểm tối nhất chưa tối hoàn toàn và điểm sáng nhất không sáng hoàn toàn) .

Ví dụ , ta có thể thấy ảnh bị thiếu sáng và bị đục , có cảm giác như có 1 lớp màng đục phủ lên phía trên , đó là vì ảnh chưa đúng tonal range của nó , điểm tối nhất chưa tối hoàn toàn và điểm sáng nhất không sáng hoàn toàn , nghĩa là black point và white point chưa đạt được ngưỡng giá trị 0-255 , nhìn histogram để hiểu :


Bây giờ ta bắt đầu di chuyển nút trượt ở 2 bên dựa vào histogram , kéo cho đến khi đúng với hình mình minh hoạ , và ta có thể thấy sự thay đổi thật rõ ràng , và bây giờ ảnh đã có 1 dãy tonal range rộng :


So sánh 2 dãy tonal range trước và sau khi chỉnh sửa :


Tương tự , ta vẫn có thể vào 3 kênh Red , Blue , Green và quan sát dãy tonal range của từng kênh để điều chỉnh cho đúng :


Trong đa số các trường hợp , ta chủ yếu vẫn chỉ là tăng hoặc giảm contrast và độ phơi sáng ở 2 vùng shadow và highlight nên thường có 2 dạng đường cong hay được hiệu chỉnh nhất là S-curves và ngược lại (inverse curves) :



3. Khử màu nóng hoặc lạnh :

Curves giúp ta khử bỏ những gam màu nóng hoặc lạnh theo ý muốn 1 cách hiệu quả mà không cần phải qua những thủ thuật rườm rà khác , ví dụ :
Ta thấy ảnh có gam màu nóng hơi nhiều ( red và yellow)


Bây giờ ta bắt đầu hiệu chỉnh.
Giải thích một chút , ta sẽ dựa vào cơ chế bù màu này :

RED-CYAN
GREEN-MAGENTA
BLUE-YELLOW

Kênh Red: khi ta tăng sáng thì sẽ được màu Đỏ, giảm sáng được màu Xanh ngọc (Cyan)
Kênh Green: tăng sáng được màu Xanh lá, giảm sáng được màu Tím (Magenta)
Kênh Blue: tăng sáng được màu Xanh dương, giảm sáng được màu vàng

Từ đó ta sẽ có :
Khi ta kéo đường cong ở kênh Red xuống , nghĩa là ta tăng thêm Cyan , và ảnh bị khử bớt Red
Khi ta kéo đường cong ở kênh Blue lên , nghĩa là ta đang loại bỏ Yellow 


Và đây là kết quả , ảnh đã được khử màu nóng :



 4. Xác định black point và white point :

Curves có chức năng xác định điểm tối nhất và điểm sáng nhất trong tấm ảnh (các icon hình ống hút) , để ảnh được trả về đúng tonal range của nó.
Để xác định white point , click vào nút trượt phía tay trái , sau đó ấn và giữ phím Alt , kéo sang phía bên phải , cho đến khi xuất hiện điểm sáng nhất :


Tương tự , click và giữ phím Alt kéo sang bên trái cho đến khi xuất hiện black point :


Và khi đó , ta dùng công cụ Color Sample Tool để đánh dấu lại 2 điểm này . Tiếp tục khi đó ta sẽ dùng ống hút black point và white point click vào những điểm mà ta đã đánh dấu .
Lưu ý : Nhấp đúp vào icon hình ống hút , sẽ hiện ra bảng màu và khi đó ta sẽ chọn mẫu màu sáng và tối nhất.



5. Các tuỳ chọn thủ công khác :

Click vào icon hình bàn tay , sau đó ta bắt đầu rê chuột vào các vị trí trong tấm hình , tại vị trí nào thì bên histogram sẽ xuất hiện điểm neo tương ứng cho vị trí đó trên tấm ảnh (nghĩa là , ví dụ khi ta rê chuột vào 1 vùng tối trên tấm ảnh thì điểm neo sẽ xuất hiện ở vị trí thấp bên dưới của đường cong , phần shadow ...) :


Nhấp vào icon hình cây bút chì , ta sẽ vẽ 1 đường cong theo ý muốn :